Bệnh xã hội: bệnh giang mai là gì? (phần 1)
Peozi
Thứ Sáu,
19/08/2022
Giang mai là loại bệnh nhiễm trùng lây truyền qua bằng quan hệ tình dục (STI) do một loại vi khuẩn có tên là Treponema pallidum gây ra. Theo như Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh của Mỹ, tỷ lệ nữ giới mắc bệnh giang mai có dấu hiệu giảm xuống, nhưng ở nam giới và đặc biệt là nam giới có quan hệ tình dục đồng giới đang tăng lên đáng kể.
Vi khuẩn xoắn của bệnh giang mai
Dấu hiệu để chúng ta nhận biết tình trạng bệnh theo từng giai đoạn.
Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng việc đạt được và duy trì tải lượng vi rút không phát hiện được ở một người dương tính với HIV giúp loại bỏ nguy cơ lây truyền HIV cho bạn tình chưa bị nhiễm.
Điều trị dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP) là một chiến lược dự phòng HIV được sử dụng bởi những người có nguy cơ phơi nhiễm HIV cao. Nó có thể được điều trị như một viên thuốc hàng ngày (Truvada hoặc Desicovy) hoặc tiêm (Apretude) hai tháng một lần.
Giang mai sớm.
- Giang mai thời kỳ 1: lúc này người bệnh vẫn sinh hoạt bình thường và không có bất kỳ triệu chứng nào. Tuy nhiên, bệnh giang mai lại dễ lây nhiễm nhất trong giai đoạn này và cả giai đoạn tiếp theo. Giai đoạn đầu của bệnh giang mai thường bắt đầu khoảng 3 đến 4 tuần (khoảng 9 đến 90 ngày) sau khi nhiễm vi khuẩn. Bệnh nhân bị loét tròn nhỏ gọi là săng. Lúc này bệnh không gây đau đớn, nhưng nó rất dễ lây lan. Những vết loét này có thể xuất hiện ở bất cứ nơi nào vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể. Bên trong miệng, bộ phận sinh dục hoặc hậu môn (hoặc có thể là vùng ngoại sinh dục). Các vết thương tự lành trong khoảng 3 đến 10 tuần có hoặc không điều trị. Bệnh nhân có thể không nhận thấy sự xuất hiện của săng hoặc thấy nó tự biến mất. Nếu không được chẩn đoán và điệu trị trong thời kỳ này, sau 4 – 8 tuần từ khi xuất hiện tổn thương ban đầu, bệnh sẽ tiến triển sang giang mai thời kỳ 2.
- Giang mai thời kì 2: bệnh bây giờ có nguy cơ lây nhiễm cao cho người khác. Bệnh giang mai thời kỳ này thường dễ bị nhầm với một số bệnh khác như dị ứng thuốc, vảy nến. Các dấu hiệu xuất hiện như phát ban trên da và đau họng. Các nốt phát ban này sẽ không gây ngứa và thường xuất hiện ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, và xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào trên cơ thể. Thậm chí, một số người không nhận thấy các nốt phát ban trước khi chúng hết hẳn biến mất. Các triệu chứng khác của giang mai giai đoạn 2 còn có thể bao gồm: đau đầu, mệt mỏi, sốt, giảm cân, đau nhức khớp…Có thể có các dấu hiệu thần kinh như là: điếc một bên, liệt thần kinh mắt, viêm màng bồ đào, viêm màng não. Triệu chứng của bệnh giang mai thời kỳ II có thể tự mất đi dù không điều trị gì. Tuy nhiên, nếu người bệnh không phát hiện bệnh và không được điều trị, bệnh sẽ tiến triển sang giang mai tiềm ẩn.
- Giang mai tiềm ẩn: Không có dấu hiệu hoặc triệu chứng lâm sàng. Do đó, nó chỉ có thể được phát hiện bằng các xét nghiệm huyết thanh học. Nó được chia thành hai loại: độ trễ sớm (dưới 2 năm) và độ trễ muộn (hơn 2 năm).
Giang mai muộn.
Giang mai thời kì 3: Xuất hiện thường từ nhiều tháng, nhiều năm sau khi có săng trong một phần ba trường hợp nêu trên và nếu không điều trị sẽ xuất hiện các biến chứng. Biến chứng bao gồm: săng thương sâu ở da, xương, nội tạng, tim mạch và thần kinh. Ở giai đoạn này, người bệnh ít có khả năng lây nhiễm cho bạn tình vì xoắn khuẩn đã xâm nhập và khu trú vào phủ tạng, không còn ở da, niêm mạc.
Nguyên nhân gây ra bênh giang mai.
Các bác sĩ chuyên khoa cho biết nguyên nhân gây ra bệnh giang mai là một loại vi khuẩn có tên Treponema pallidum. Được phát hiện vào năm 1905, vi khuẩn này có hình cánh với 6 đến 14 vòng xoắn. Treponema pallidum có sức đề kháng rất yếu và không thể tồn tại bên ngoài cơ thể người quá vài giờ. Nhiệt độ phát triển tối ưu cho xoắn khuẩn là 37 ° C. Dung dịch và chất khử trùng có thể tiêu diệt xoắn khuẩn trong vài phút. Bệnh giang mai lây truyền khi người lành tiếp xúc trực tiếp với nang giang mai của người bệnh thông qua quan hệ tình dục qua đường âm đạo, hậu môn hoặc miệng. Bệnh cũng có thể lây truyền gián tiếp qua các thiết bị, đồ vật bị ô nhiễm hoặc các vết xước trên da, niêm mạc. Ngoài ra, bệnh có thể lây truyền qua đường máu khi mang thai và có thể truyền từ mẹ sang con nếu người mẹ mắc bệnh.
Các nguyên nhân dẫn đến mắc bệnh.
Bệnh giang mai không tự phát trở lại sau khi bệnh nhân khỏi bệnh. Tuy nhiên, nếu người bệnh chạm vào vết thương giang mai của người khác, họ có thể bị nhiễm bệnh trở lại.
Những ai có nguy cơ mắc bệnh? Và các biến chứng nguy hiểm của giang mai.
Bất kỳ người nào có quan hệ tình dục đều có thể mắc bệnh giang mai. Tuy nhiên, bệnh sẽ xuất hiện ở một nhóm người có tỉ lệ mắc bệnh cao như:
- Quan hệ tình dục không dùng các biện pháp bảo vệ.
- Quan hệ tình dục với nhiều bạn tình.
- Quan hệ tình dục đồng tính nam.
- Nhiễm HIV, virus gây bệnh AIDS.
Các biến chứng nguy hiểm của giang mai
Nếu bệnh không được phát hiện và không được điều trị kịp thời đúng cách, bệnh giang mai không chỉ dẫn đến những tổn thương khắp cơ thể người bệnh mà còn có thể gây ra nhiều biến chứng khác vô cùng nguy hiểm như:
Những biến chứng khi mắc giang mai.
Các vết sưng hoặc khối u nhỏ.
Những vết sưng này, được gọi là bệnh đậu mùa, có thể xuất hiện trên da, xương, gan hoặc các cơ quan khác ở những người mắc bệnh giang mai giai đoạn cuối.
Xuất hiện các vấn đề về thần kinh.
Bệnh giang mai còn có khả năng gây ra các vấn đề với hệ thần kinh như: đau đầu, viêm màng não, bị điếc, giảm thị giác và có thể dẫn đến mù lòa, suy giảm trí tuệ, mất đi cảm giác về đau và nhiệt độ, rối loạn chức năng tình dục ở nam giới, bàng quang không kiểm soát, các vấn đề về tim mạch…
Nhiễm HIV.
Những người mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục giang mai và các vết loét ở bộ phận sinh dục khác được ước tính có nguy cơ bị nhiễm HIV cao hơn từ hai đến năm lần. Vết thương chảy máu dễ chảy máu, khiến HIV dễ xâm nhập vào máu khi quan hệ tình dục.
Các biến chứng khi phụ nữ mang thai và sinh nở.
Phụ nữ mang thai bị nhiễm bệnh giang mai có thể truyền sang thai nhi. Ngoài ra, giang mai bẩm sinh làm tăng đáng kể nguy cơ sẩy thai, thai chết lưu hoặc tử vong ở trẻ sơ sinh trong vài ngày đầu sau sinh.